Kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2016 trên địa bàn tỉnh An Giang
(Cổng TTÐT An Giang) - Qua công tác tổng hợp, báo cáo theo Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập và Thông tư số 08/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập, kết quả thực hiện minh bạch tài sản, thu nhập năm 2016 trên địa bàn tỉnh An Giang đạt được kết quả như sau:

Hàng năm, để thực hiện kê khai minh bạch tài sản, thu nhập cá nhân theo Nghị định số 78/2013/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 08/2013/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đều có văn bản yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị nghiêm túc triển khai, tổ chức thực hiện theo quy định và giao Thanh tra tỉnh hướng dẫn, đôn đốc, tổng hợp báo cáo kết quả kê khai minh bạch tài sản, thu nhập trên địa bàn tỉnh.
Năm 2016, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành Văn bản số 1808/UBND-NC ngày 16/12/2016 triển khai thực hiện các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập trên địa bàn.

Theo đó, có 68/68 cơ quan, tổ chức, đơn vị của tỉnh đã triển khai thực hiện việc kê khai minh bạch tài sản, thu nhập và báo cáo kết quả theo quy định (đạt tỷ lệ 100%). Số người phải kê khai tài sản, thu nhập trong năm là 11.375 người, tăng 356 người so với năm 2015 (trong năm 2015 có 11.019 người thuộc diện phải kê khai), nguyên nhân tăng do qua rà soát, xác định lại đối tượng nhằm nắm chặt việc biến động đối tượng phải kê khai một cách chính xác, đầy đủ hơn, nhưng chủ yếu do sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, bổ nhiệm, chuyển công tác, tuyển dụng mới.

Số người đã thực hiện kê khai là 11.375 người (đạt tỷ lệ 100%) so với số người phải kê khai. Tổng số bản kê khai tài sản, thu nhập 11.375 bản, trong đó: Số bản kê khai lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị là 8.756 bản và số bản kê khai do cấp ủy quản lý là 2.619 bản.Số bản kê khai đã công khai là 11.375 bản (đạt tỷ lệ 100 %) so với số bản đã kê khai. 

Trong đó, công khai bằng hình thức niêm yết của 54 cơ quan, tổ chức, đơn vị, với số lượng 7.288 bản, tỷ lệ 64,07 % so với số bản đã kê khai.Công khai bằng hình thức công bố tại cuộc họp của 14 cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện, với số lượng 4.087 bản, tỷ lệ 35,93 % so với số bản đã kê khai.
Sau khi thực hiện công khai bản kê khai tài sản, thu nhập của cá nhân tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị; không phát sinh tố cáo hoặc thông tin phản ảnh về việc kê khai không đầy đủ, trung thực tài sản, thu nhập nên không có trường hợp nào phải giải trình, xác minh tài sản, thu nhập.

Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 và Thanh tra Chính phủ ban hànhThông tư số 08/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 đã quy định, hướng dẫn cụ thể việc thực hiện minh bạch tài sản, thu nhập, nhất là ban hành các phụ lục, biểu mẫu thống nhất, chi tiết, rõ ràng, từ đó giúp cho địa phương cũng như các cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc tỉnh và đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai thuận lợi trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện công tác kê khai, công khai, minh bạch tài sản, thu nhập.

Với sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Tỉnh uỷ và Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác kê khai, công khai, minh bạch tài sản, thu nhập, từ đó đã kịp thời triển khai, phân công các cơ quan, tổ chức, đơn vị cơ sở phối hợp để thực hiện tốt công tác này. Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị đã chú trọng việc tuyên truyền, quán triệt và  triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định về kê khai, công khai, minh bạch tài sản, thu nhập tại đơn vị và báo cáo kết quả theo quy định.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên, vẫn còn một số khó khăn vướng mắc trong quá trình tổ chức, thực hiện như:

Bộ phận tổ chức, người được giao phụ trách công tác minh bạch tài sản, thu nhập, công tác tổng hợp chưa hướng dẫn đầy đủ, chưa xác định rõ đối tượng kê khai, nên còn những thiếu sót trong việc xác định người kê khai, tổng hợp báo cáo; bỏ qua một số người thuộc diện kê khai, kê khai thừa đối tượng, dẫn đến việc tăng, giảm số lượng kê khai, thiếu chính xác.

Việc kê khai tài sản, thu nhập về nhà ở thuộc quyền sở hữu của cha, mẹ (kể cả bên vợ hoặc chồng) khi sống chung; tài sản đang thuê, đang quản lý hộ, giữ hộ nếu tổng thời gian sử dụng tài sản đó trong kỳ kê khai từ 6 tháng trở lên là chưa phù hợp vì người kê khai không có quyền sở hữu về tài sản mà thực hiện việc kê khai tài sản của người khác, dẫn đến cùng một tài sản có nhiều người kê khai; đồng thời việc kê khai tài sản thuộc sở hữu của người khác sẽ không rõ ràng thông tin về tài sản đó.

Đối tượng thuộc diện phải kê khai minh bạch tài sản, thu nhập theo quy định hiện hành là quá rộng, khó quản lý, theo dõi, kiểm soát tính trung thực của việc kê khai. Do đó hạn chế việc kê khai hàng năm và đối tượng phải kê khai theo hướng: Chỉ thực hiện kê khai bổ sung khi có biến động về tài sản, thu nhập tăng thêm có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên hoặc đối tượng thuộc diện phải kê khai chỉ những vị trí chủ chốt, quan trọng thì thực hiện kê khai. Cần sớm xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về bản kê khai tài sản, thu nhập để quản lý được tập trung và dễ dàng theo dõi, giám sát, kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai./.

Trương Thị Hồng Thắm

VĂN BẢN